Văn hóa - xã hội
   A+ =A -A

TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

20/01/2025 - 14:53

 ĐỀ CƢƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(03/02/1930 - 03/02/2025)
(Kèm theo Hướng dẫn số 133-HD/BTGTU ngày 13/12/2024 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)
-----
I - ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƢỚC NGOẶT VĨ ĐẠI TRONG
LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1 - Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong
tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược
và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm
đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân
tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa MácLênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài
người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam,
Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2 - Bối cảnh trong nước
- Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy
thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành một xứ thuộc địa, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Chính sách
thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một
chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành
động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba
nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và
thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách
bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng
nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ
thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.

2
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, bưng bít, ngăn cản
ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên
tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt, phần
lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ
phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình
thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều
mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép
nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
lúc này là mâu thuẫn nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mâu thuẫn ngày
càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực
dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi
vào khủng hoảng về đường lối cách mạng.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong
trào đấu tranh của Nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên, do thiếu
đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó
đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong
trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do
Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng
Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,... Cách mạng Việt Nam chìm
trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đƣờng cứu nƣớc và chuẩn bị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước thì
ngày 05/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng
cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi
nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra
chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của
công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng
6/1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước
Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8
điểm đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản
“Sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
của Lênin đăng trên

3
báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh
giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
- Từ ngày 25 - 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18
Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày
30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở
thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người
Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng
Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu,
Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên
Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng
chí cách mạng tiền bối đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự
ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ
Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản
Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội
Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng.
Ngày 01/01/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức
tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung
Kỳ. Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự
phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động.
Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình
trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
- Từ ngày 06/01 - 07/02/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông
(Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế
Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm
lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình,
“Bỏ mọi
thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông
Dương
. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng,
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của
Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và
Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học
sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó,
Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung

4
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất
các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị
lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cƣơng lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra
thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những
nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những
nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các
tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu
nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống
nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì
lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ
giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng
hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời
đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
II - NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN
CHẶNG ĐƢỜNG 95 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc,
giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi
của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
- Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ
Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản
động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo
hình thức Xô Viết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách
mạng Việt Nam do Đảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây

5
dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát
động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh
đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân
phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ
về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích
lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống
nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng
suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn
kết, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản,
chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của
thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên Nhân dân ta
mấy mươi thế kỷ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam
bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam
châu Á. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc.
2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất
nƣớc (1945 - 1975)
2.1 - Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954)
- Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp
dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của
Nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống
thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước;
kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả
Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng
vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều
kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên
phạm vi cả nước.

6
Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân
Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với
quyết tâm
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”
. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu
dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn
bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến
tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ
“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký
kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam chấm dứt sự thống trị của
thực dân Pháp ở nước ta.
2.2 - Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc (1954 - 1975)
- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
Nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa
xã hội; ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân
Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng.
Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo
cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường
lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc
hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi
dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết
hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh
thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của
Nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân
yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại
các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang
mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là một
trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế
và có tính thời đại sâu sắc.
- Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo
Nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến
hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan
trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất,

7
vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn
đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nƣớc, thực
hiện công cuộc đổi mới đất nƣớc từ năm 1975 đến nay
3.1 - Từ năm 1975 đến năm 1986
Sau giải phóng miền Nam, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã
lãnh đạo Nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế - xã hội vừa chiến đấu bảo vệ biên
giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cùng với quân dân Campuchia chiến
thắng chế độ diệt chủng; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài
mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những
hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội
trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước những thách thức của
thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới,
ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6
(khóa IV) về
“Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và
công nghiệp địa phương”;
Chỉ thị 100- CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về
“Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người
lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”
; Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/1/1981
của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của
sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh
tế trong tình hình mới...
3.2 - Từ năm 1986 đến nay
Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo
nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng
(tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với
những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại
hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng
định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng.

8
Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự
kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không
ngừng được bổ sung và phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn
thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ
trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa đã
ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội
không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật,
tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo
Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị
phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Gần 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (1991) và 40 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo; với ý chí độc lập, tự chủ, tự cường, khát vọng xây dựng
và phát triển đất nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm xây dựng nước
Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Nhân dân có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc.
Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, nước ta
đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào
nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm
nhiều trọng trách quốc tế. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
được giữ vững, lợi ích quốc gia dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế nước ta
đã tăng 96 lần so với năm 1986, lọt Top 40 nền kinh tế hàng đầu, quy mô thương
mại Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương
mại tự do (FTA) gắn kết 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực; thiết lập quan hệ ngoại
giao với 194 quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới, có quan hệ Đối tác chiến lược và
Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có toàn bộ các thành viên Thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nền kinh tế nhóm G7. Đời sống của người dân
được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hoàn thành về đích sớm các mục
tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công
nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy
trì hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta
có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội XIII (2021) Đảng ta có khoảng hơn 5 triệu
đảng viên và hơn 53.800 tổ chức cơ sở đảng.
Những thành tựu vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử trong gần 40 năm thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo, là kết quả của một quá trình nỗ lực, phấn
đấu liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của Đảng, phù hợp với thời đại và thực tiễn Việt
Nam, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
4. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam

9
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 95 năm qua, Đảng
ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ
vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ
mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có
quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa
rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất
nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và
là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng
kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí
độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc
phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo,
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng
làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ
chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải
phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự
thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
III - PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG, CHỈNH
ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, XÂY DỰNG
NƢỚC TA NGÀY CÀNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH, VĂN HIẾN VÀ ANH HÙNG
1. Những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền
thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp,
kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ
sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách
mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được

10
thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự
được tự do; Nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của
quốc tế để đề ra đường lối đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ
thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương
hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, luôn luôn lấy
việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi
dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày đầu, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức
phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của Nhân
dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên
cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng
chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng
súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam
đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau;
về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người
cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được Nhân dân tin yêu,
bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi
thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.
Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những
nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và
thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến
đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt
Nam liên tục phát triển.
Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân
quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo
của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương
máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.
Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu
sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt
đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong
trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội. Trên con đường phát triển, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết
sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

11
2. Tăng cƣờng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; xây dựng đất nƣớc giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Trong 95 năm qua, Đảng ta nỗ lực không ngừng, bám sát tình hình thực tiễn
trong nước và thế giới để ban hành các quyết sách, chiến lược đúng đắn, sáng tạo
đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để có những
thắng lợi vĩ đại, vinh quang, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa ngày càng phát triển vững mạnh, đời sống Nhân dân ngày càng ấm no, hạnh
phúc. Đảng ta đã không ngừng tự đổi mới, dành nhiều thời gian và công sức cho
công tác xây dựng Đảng, xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xuyên
suốt trong các nhiệm kỳ của Đảng.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã thực hiện toàn diện, đồng bộ, sâu sắc 10 nhiệm vụ về xây
dựng Đảng, đáp ứng yêu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, như: Công tác tư tưởng tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận xã hội;
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn
với thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên đạt kết quả tốt. Tăng
cường mạnh mẽ, hiệu quả với quyết tâm chính trị rất cao công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với phương châm
“không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”; công tác kiểm
tra, giám sát được chú trọng, tăng cường tính chủ động “đi trước mở đường”, xử lý
nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương
trong Đảng. Cụ thể đã ban hành các nghị quyết, quy định: Kết luận số 21 - KL/TW
ngày 25/10/2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn,
đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”;
Quy định số 37 - QĐ/TW ngày
25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương
về những điều đảng viên không được
làm
; Quy định số 144 - QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới
.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, Đảng đã thi hành kỷ luật hơn 140 cán
bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó có cả đương
chức và đã nghỉ hưu (có 31 Ủy viên Trung ương Đảng đang đương chức, nghỉ hưu;
25 sĩ quan cấp tướng; 55 cán bộ, đảng viên bị xử lý hình sự,…) và xử lý nhiều vụ án,
vụ việc xảy ra từ nhiều năm trước, khởi tố nguyên Bí thư tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch,
Phó chủ tịch cấp tỉnh,… Những kết quả đó, khẳng định bản lĩnh chính trị, sự vững
vàng, kiên định, nhất quán của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; làm cho Đảng ta đoàn
kết hơn, vững mạnh hơn, trong sạch hơn, củng cố niềm tin, tin tưởng của cán bộ,
đảng viên và Nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng hiện nay còn hạn chế, khuyết điểm: một
số cấp ủy, tổ chức chưa quan tâm, coi trọng đúng mức về nhiệm vụ chính trị; công
tác dự báo, nắm tình hình, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có mặt chưa đáp
ứng được yêu cầu; phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng có lúc, có nơi còn bị động; việc đổi mới, xếp sắp tổ chức bộ máy

12
của hệ thống chính trị, phân cấp, phân quyền chuyển biến chưa mạnh mẽ. Đổi mới
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị và cải cách
hành chính trong Đảng chưa đáp ứng yêu cầu; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của một số tổ chức đảng còn yếu; một số cấp ủy cơ sở, chi bộ chưa thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ; kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ có mặt còn hạn chế, còn
nhiều cán bộ, đảng viên đùn đẩy, sợ trách nhiệm; công tác kiểm tra, giám sát ở một
số nơi chưa hiệu quả, cơ chế phối hợp giám sát, phản biện xã hội thiếu đồng bộ; cơ
chế phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn có mặt hạn chế.
Trước yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
vươn mình của dân tộc, Đảng ta tiếp tục tăng cường hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, vững mạnh toàn diện; đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bảo vệ vững chắc thành quả
cách mạng, thành tựu đổi mới của Nhân dân ta, dân tộc ta. Đẩy mạnh, nâng cao
hiệu quả, tạo sự chuyển biến căn bản trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức đảng ở cơ sở và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược thật sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị,
phẩm chất, năng lực và uy tín. Tăng cường kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng
điểm và có tính đột phá; kiểm soát quyền lực chặt chẽ; đẩy mạnh công tác phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm “không ngừng, không nghỉ”, “không
có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường củng cố niềm tin của
Nhân dân đối với Đảng; coi trọng và tăng cường đoàn kết trong Đảng, lấy đoàn kết
của Đảng làm cơ sở, nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thắt chặt
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; phát huy truyền thống, sức mạnh
đoàn kết, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta, để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy tinh thần dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện,
phù hợp với công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, xây dựng Đảng ta
thật sự trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh”.
Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân tăng cường đoàn kết, thống nhất, phát huy tinh thần cách mạng,
truyền thống quý báu của Đảng, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức,
hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng, hướng tới Đại hội
đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV

13
của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh,
văn hiến và anh hùng theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Xếp hạng bài viết
Click để đánh giá bài viết
Các tin khác

TUYÊN TRUYỀN ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP (20/01/2025)

TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (20/01/2025)

UBND XÃ ÂN THẠNH TỔNG KẾT CÔNG TÁC NÔNG, LÂM NGHIỆP NĂM 2024 (29/11/2024)

HƯỞNG ỨNG NGÀY CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA (27/09/2024)

HỘI KHUYẾN HỌC XÃ TỔ CHỨC TRAO THƯỞNG CHO HỌC SINH GIỎI NĂM HỌC 2023 - 2024! (16/09/2024)

(09/09/2024)

TỔ CHỨC GIẢI BÓNG CHUYỀN NAM 2024 CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 79 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 02/9 (23/08/2024)

TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 79 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG 8 THÀNH CÔNG VÀ QUỐC KHÁNH 02/9 (23/08/2024)

Hướng tới kỷ niệm 79 năm ngày truyền thống LL CAND và 19 năm ngày hội toàn dân bảo vệ ANMTQ. (14/08/2024)

Tuyên truyền kỷ niệm 77 năm ngày "thương binh - liệt sĩ" (16/07/2024)

Ân Thạnh - Đất và người. (16/07/2024)

MÍT TINH HƯỞNG ỨNG NGÀY BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG (02/07/2024)

Lễ ra mắt lực lượng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở (02/07/2024)

Một số nhiệm vụ trọng tâm cải cách hành chính (02/07/2024)

TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN CHUYỂN ĐỔI SỐ (27/06/2024)

THAM GIA NGÀY HỘI HIẾN MÁU NHÂN ĐẠO 2024 (26/06/2024)

TRƯỜNG MẦM NON ÂN THẠNH TỔNG KẾT NĂM HỌC 2023 - 2024. (07/06/2024)

Tuyên truyện kỷ niệm 65 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh (15/05/2024)

Ngày hội nông sản huyện Hoài Ân lần thứ 2 - năm 2024 (15/05/2024)

Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri trước kỳ họp thứ 7 (15/05/2024)

1 2
VIDEO
ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ÂN THẠNH

Địa chỉ: THÔN THẾ THẠNH 2, XÃ ÂN THẠNH - Hoài Ân –Bình Định

Đường dây nóng báo cáo sự cố về an toàn thông tin: 02563.707.377

Người chịu tránh nhiệm nội dung: TRẦN XUÂN HÙNG – Chủ tịch UBND

@ Bản quyền thuộc về: ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ÂN THẠNH

Liên hệ
  • Điện thoại: 02563.707.377

  • Email: hungtx@hoaian.binhdinh.gov.vn